Đường phố Tehran với áp phích chống Do Thái và ảnh Sheik Hassan Nasrallah, lãnh đạo khối Hezbollah
Nguồn: Shawn Baldwin/The New York Times |
Trung học Hồng Đức (Đà Nẵng, thập niên 60-70)
Nguồn: flickr.com |
Giáo dục cộng sản
Nguồn: flickr.com |
“Thầy cũng như cha mẹ, cha mẹ có công sinh thành mà thầy có công giáo dục. Phải biết ơn thầy cũng như ơn cha mẹ.”
Những nhà giáo dục tiêu biểu cho truyền thống giáo dục còn có những người như Bùi Kỷ, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Ngọc, Đinh Phúc, Đỗ Thận. Cả một thời. Và một thời tiếp nối.
Trong khi miền Bắc phủ nhận, xóa bỏ tất cả những truyền thống ấy. Kể từ đó, họ mất giáo dục. Hãy đọc Vương Trí Nhàn trong bài tâm sự: Những nỗi đau của thời nay. Ông viết:
“Trong mục trà dư tửu hậu trên TBTTSG, số 10‒2008, tôi đã kể về một cô giáo trẻ chạy trốn khỏi nghề dạy học. Cô không đương nổi nỗi đau mà nhiều thầy giáo có lương tâm bây giờ phải gánh chịu không có được lớp học trò tử tế để có thể yêu thương tin tưởng cống hiến hết mình cho nghề”
(Trích Kinh tế Sài Gòn. Những nỗi đau của thời nay, Vương Trí Nhàn, 31‒5‒2009).
Tôi xin nhắc ông Vương Trí Nhàn là cách đây mấy chục năm, cũng phải 30 năm, ông có đại diện một nhà xuất bản viết một lá thư, tôi còn giữ lá thư đó, ông xin lỗi một giáo sư miền Nam về việc làm của nhà xuất bản in ấn không xin phép tác quyền.
Cái hỏng nó từ lúc ấy rồi ông ạ. Nỗi đau của ông phải kể từ lúc đó rồi ông ạ. Dù sao, ông còn là người biết đau. Cái hỏng của giáo dục bây giờ là người ta không còn biết đau là gì nữa. Có phải vậy không ông? Tôi ngồi đây chia sẻ cái đau của ông ở trong nước. Ít ra chúng ta còn có một mẫu số chung như thế.
Tiếng than của ônglà tiếng than của chính những người trong cuộc chứ không phải ai xa lạ do oán ghét chế độ mà viết. Đó là những người còn có lòng với giáo dục.
Thật vậy, không bao lâu sau khi chiếm miền Nam, chế độ đã làm mất đi cái quý giá đó ‒ Tôi đã nhận ra cái hỏng của chế độ mới về giáo dục ngay từ hồi “giải phóng” rồi. Tôi còn nhớ đã ghi trong nhật ký 30 tháng tư của tôi như sau: Thứ bảy 21 tháng 6, 1975. Giáo dục dưới mái trường Xã Hội chủ nghĩa. Câu then chốt tôi đã viết như thế này, Đất nước tiến lên hay thụt lùi cũng từ cái khâu này.
Hơn 30 năm sau. Họ vẫn lội bì bõm trong vũng lầy giáo dục tuyên truyền dối gạt, thiếu nhân bản. Người đi học mất đi cái hồn nhiên, sự chân thật và lòng tử tế.
Tương quan Thầy –Trò không còn nữa, thầy không ra thầy, trò không ra trò vì những lý do sau đây:
Cài đặt các tổ chức đoàn đội Cộng sản trong nhà trường.
Trước 1975, các trường không phải không có nhiều tổ chức. Nhưng những tổ chức đó nhằm đem cái tốt đến cho học sinh. Tùy theo điều kiện có các tổ chức bên lề như Hướng Đạo, các sinh hoạt văn nghệ như ca đoàn, kịch nghệ, các đội thể thao như bóng tròn, bóng bàn, tập nhu đạo, v.v… Thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa còn tổ chức các trại hè mỗi năm cho học sinh ưu tú của các trường công lập, bán công và tư thục được du ngoạn tại Nha Trang, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị, Vũng Tàu. Tôi nghĩ là cũng tốt, nhưng có thiệt thòi cho các em học sinh khác nhiều quá, nhất là các học sinh con nhà nghèo.
Có lần Bộ Giáo dục còn tổ chức du ngọan cho 100 học sinh sang Thái Lan vào năm 1958. Hoặc chính quyền vào năm 1959 còn tổ chức các Đại Hội thể thao và điền kinh sinh viên học sinh. Tổ chức hằng năm các giải vô địch thể dục, thể thao và điền kinh cho sinh viên, học sinh ở cấp tỉnh, cấp khu và cấp toàn quốc. (Cũng chính cái nếp giáo dục ấy đã tạo ra những kỳ Đại hội thể thao của sinh viên Việt Nam, dù đang sống xa quê hương, tại Bắc Mỹ đã có từ trước năm 1975 vào kéo dài đến nhiều năm sau đó. Đây chỉ là một thí dụ tiêu biểu).
Đấy là những sinh hoạt không thể thiếu được trong môi trường giáo dục lành mạnh. Một lần đi du ngoạn, sống chung với bạn bè cùng lứa tuổi. Các em học hỏi được nhiều điều về con người, về tương quan tình người‒người, trách nhiệm bổn phận, về danh dự và tư do cá nhân, về tất cả những giá trị nhân bản và cuối cùng về thiên nhiên, môi trường. Đó là những bài học sống động mà trong môi trường học đường không thể cung cấp được vì nó ở bên ngoài sách vở.
Sau 1963, có nhiều phong trào sinh viên, học sinh ra đời như phong trào văn nghệ dấn thân, du ca. Tự họ đảm đương, tổ chức lấy sinh hoạt cho học sinh, sinh viên ngoài khuôn viên nhà trường. Chẳng hạn đoàn văn nghệ sinh viên học sinh Nguồn Sống. Các chương trình phát triển sinh hoạt thanh niên học đường. Các chương trình công tác hè, Summer Youth program vào các năm 1965. Các chương trình phát triển quận 8.
Tôi đã không hề thấy những sinh hoạt như thế từ sau 1975. Và sau này nếu có, đã hẳn nó mang ý nghĩa chính trị trong đó.
Những sinh hoạt bên lề như thế giúp học sinh phát triển toàn diện con người về mọi mặt. Ở Việt Nam bây giờ, nhiều trường học không có sân chơi. Giờ ra chơi các em làm gì? Thật là tội nghiệp cho các em quá!!!
Các tổ chức bên lề trrường học cũng nằm trong thứ triết lý giáo dục của miền Nam đã đề xướng ra trong kỳ đại hội giáo dục toàn quốc vào năm 1958. Tham dự đại hội giáo dục này là hiệu trưởng các trường trung học toàn mỉền Nam, các trưởng ty tiểu học và một số giáo sư trung học. Triết lý giáo dục ấy là một nền giáo dục: Nhân Bản, Dân tộc và khai phóng.
Nhân bản là tôn trọng những giá trị tinh thần. Nhân bản còn có ý nghĩa lấy con người làm cứu cánh, nhằm phát triển con người toàn diện. Ý niệm con người toàn diện đã được các ông Trương Công Cừu, linh mục Trần Văn Hiến Minh và giáo sư Trần Bích Lan bổ xung thêm vào.
Dân tộc là tôn trọng các giá trị truyền thống như gia đình, nghề nghiệp và bổn phận với đất nước.
Khai phóng là tôn trọng tinh thần khoa học, hiểu biết mở rộng ra các nền văn hóa khác.
Chương trình giáo dục miền Nam đã được áp dụng như trên từ niên học năm 1958‒1959. Và giữ mãi như thế cho đến 1975.
Và những gương về nền giáo dục ấy không thiếu. Mỗi học sinh sau này, dù đã trưởng thành thì đều để lại một vài hình ảnh các thầy cô của mình. Nhà văn Phan Nhật Nam trong một chuyện ông kể trong một bữa nhậu sau đây có thể tin được và khá cảm động. Ông kể rằng, ở Long An, trên một con đường làng nhỏ hẹp, vào một buổi chiều, một nhà nông già dắt trâu về nhà trông đằng xa có một cô gái chừng 20 tuổi đi ngược trở lại. Ông liền vội vã ghìm trâu nép sát vệ đường nhường lối đi cho cô gái đi qua. Đối diện người con gái, ông vội giở nón chào kính cẩn: Chào cô giáo. Cô giáo trẻ ngượng ngập, chào khẽ đáp lại.
Tại sao ông lão nhà quê lại có cử chỉ như thế đối với một cô gái mới 20 tuổi đầu đáng tuổi con cái ông? Chỉ vì một lẽ giản dị là cô giáo dạy thằng nhỏ con ông. Đó là thứ tình nghĩa trong sách Giáo Khoa Thư. Đạo lý miền Nam chỉ chừng đó đã đủ.
Trong khi đó, nhà nước cộng sản coi các em như công cụ của đảng thay vì như một đối tượng được giáo dục. Họ khai trác triệt để vốn xã hội là tuổi trẻ các em. Các em học sinh còn phải dành thì giờ đi họp tổ, họp đoàn đội, đi đánh phá tư sản, đánh phá và truy lùng sách báo phản động đồi trụy, đi giữ trật tự, đứng chỉ đường. Có chiến dịch nào là mang các em ra làm vật tế thần.
Họ đã dùng các em như “những lực lượng xung kích.” Đánh tư sản phải chăng là nhiệm vụ của một học sinh lớp 9?
Họ đã chính trị hoá học đường. Đó là cái tội phá nát các giá trị truyền thống, tôn ty trật tự, tình nghĩa thầy trò. Cho nên họ đào tạo thứ nào thì họ được thứ nấy.
Đó là cái tội lớn thứ 100 của người cộng sản.
Làm sao học trò có thể là một học sinh tốt, có thể ra người sau này khi chúng có thể bá cáo, tố giác thầy như học trò của cô giáo Hạnh? Họ biến cái tính ngây thơ, hồn nhiên trong sạch của học sinh thành những đứa trẻ biết nói dối, tố giác, biết bịa đặt, biết nghi ngờ, không tin vào ông thầy nữa. Phần ông thầy, không tin vào học sinh nữa, sống đóng kịch, sống giả trá.
Mất niềm tin vào học sinh. Không còn giáo dục nữa. Angela Mewrket viết, “Chủ nghĩa cộng sản đã tạo nên những con người dối trá.”
Bao lâu các tổ chức đoàn đội còn tồn tại thì bấy lâu không bao giờ có thể có một nền giáo dục chân chính ở Việt Nam được. Họ có làm gì, họ có kế hoạch nào, học sinh cũng không thành người được.
Chương trình học nhất là các môn Khoa Học Xã Hội có tính lừa bịp
Chương trình cũng như môn học là cái sườn của giáo dục. Tôi đã có lần viết một bài với nhan đề: Về một môn học mà thầy không muốn dạy, trò không muốn học. Đó là môn chủ nghĩa Mác Lê. Không thể nào cưỡng đặt mang một chủ thuyết của một đảng với 3 triệu đảng viên để bắt cả nước hơn 80 triệu người dân phải học cái chủ thuyết ngoại lai đó. Cùng lắm, chính quyền chỉ nên coi môn học đó như một nhiệm ý (option) chứ không phải môn học chính. Nhất là lại coi nó như một môn học chính bắt buộc liên quan trực tiếp đến việc lên lớp, thi đỗ và nhất là thi tốt nghiệp. Vì không muốn học mà môn học trở thành môm học vẹt, chán ngắt, vô nghĩa đến cả thầy đến trò đều coi như một điều vô bổ.
Sau này, học sinh suy nghĩ theo một khuôn thức kiểu Group‒think, máy móc, nhai lại như vẹt pré‒digéré, pré‒formaté mà hiểu biết hạn hẹp. Đó là những kiến thức bài bản, thuộc lòng. Một thứ la pensée courte.
Không dám loại trừ chủ nghĩa Mác ra khỏi giáo dục bằng đức dục và công dân giáo dục. Giáo dục Việt Nam còn “khó dạy”. Dạy khó cho thày vì thày phải nói dối, đóng kịch. Còn trò trở thành khó dạy theo mọi nghĩa.
Miền Nam có chủ nghĩa Nhân Vị mà nhiều người thường nêu ra như một cớ để chê trách. Nhưng thật sự, chủ nghĩa ấy không bao giờ được đem giảng dạy trong hệ thống giáo dục trung học, càng không có chỗ đứng nào ở đại học. Xin ghi nhận một lần cho xong.
Trong khi đó, chương trình giáo dục tại miền Nam trước 1975 có môn Đức Dục và Công dân Giáo dục. Ở bậc tiểu học, học 2 giờ 30 mỗi tuần về môn Đức Dục . Ở Trung học, hai giờ một tuần về môn Công dân Giáo dục. (Xin đọc thêm “Giáo dục ở miền Nam trước 1975”, Nguyễn Thanh Liêm)
Giữa môn chính trị theo chủ nghĩa Mác‒Lê Nin và các môn đức dục, công dân giáo dục đã hẳn đào tạo ra hai loại người: Loại người học Mác Lê không biết luân lý đạo đức vì thiếu môn đức dục. Không biết luật lệ hành chánh, tổ chức chính quyền, tòa án vì không được học công dân giáo dục để biết sử sự theo luật pháp, biết tôn trọng các quyền công dân của mình.
Chương trình học ấy nhất là đối với các khoa học nhân văn còn có rất nhiều điều không thật.
Sách địa lý thì không có các con số dẫn chứng. Thay vì những con số thì dùng nhiều tĩnh từ như: đất nước giầu mạnh, tiền rừng bạc biển, hướng đi lên, nhất định thắng, dân chủ gấp triệu lần, tầm vĩ mô, hướng kích cầu, bọn xâm lược, bọn bá quyền, tăng 250% so với năm ngoái. 250% của cái gì không ai biết.
Đó là thứ ngôn ngữ tuyên truyền không phải ngôn ngữ giáo dục.
Sách lịch sử thì viết bôi bác, cắt xén tùy tiện. Đó là thứ Sử phi sử.
Học sinh bị nhồi sọ bằng một thứ sử không sử.
Trong các bài sử đó, tôi không tìm thấy bóng dáng con người. Bóng dáng của tổ tiên chúng ta trong những bài học sử đó. Chẳng hạn nói về đấu tranh giai cấp thời thời Lê Mạt thì là ai?
Đó là thiếu sót không tha thứ được.
Sử là sử học về con người. Chính là những con người có tên có tuổi, là tác nhân ra sử, chứ không phải là những phong trào, những đám đông vô danh.
Vì thế, tôi cũng không tìm thấy vết chân tổ tiên tôi trên những đoạn đường sử đó với đầy chông gai và khốn khổ, áp bức, tù đày, nghèo túng và khốn cùng, nhưng vẫn đầy lòng can đảm, sự trì trí và quyết tâm đi tới.
Tôi cũng không học được bất cứ điều gì, như tình yêu tổ quốc, yêu đất nước con người, yêu mảnh đất quê hương yêu dấu như xóm làng, bà con, hàng xóm.
Tóm lại về cơ bản, tôi không chấp nhận thứ sử đó, sử phi sử.
Đấy là thứ sử của đảng Cộng Sản Việt Nam chứ không phải sử của 83 triệu người Việt. Và rằng tất cả những lính bộ đội miền Bắc đã chết là chết cho đảng Cộng Sản của Hồ Chí Minh. Không phải chết cho dân tộc Việt.
Người Việt Nam nói chung bị gạt ra bên lề của chính lịch sử đất nước mình. Điều mà ít ai để ý tới.
Tôi tóm tắt phần này bằng cách nhắn họ một câu của Phạm Văn Đồng, “Bây giờ trung thực phải đặt giáo dục lên trước vì là cái thiếu nhất.” (Trích lời Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, nxbctqg, Hà Nội ngày 20/02/1963)
Không thể chính trị hoá giáo dục nhưng phải có ý chí chính trị để đổi mới nền giáo dục
Nguồn: flickr.com |
Từ điển Việt Anh/Anh Việt
Nguồn: hzportal.dayton.lib.oh.us |
Trong sân trường Nguyễn Bá Tòng (Sài Gòn, 1971)
Nguồn: flickr.com |
Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (65 đường Huỳnh Thúc Kháng, Sài Gòn)
Nguồn: chskythuatcaothang.us |